Cái giá phải trả cho sự cải cách thất bại của nền kinh tế Trung Quốc

Paul Langrock / Zenit / Laif / Redux
Những nhà lãnh đạo Trung Cộng đang chơi một trò chơi hống hách (thống trị) trong chính sách kinh tế. Họ từ chối uốn mình theo chuẩn mực quốc tế mà chỉ đi theo con đường riêng của mình.
Thực ra, Bắc Kinh đã nhiều lần chịu chiều mình theo quốc tế dưới thời Tập Cận Bình nhưng hầu như tất cả đã bị bác bỏ và quay lại với những lối làm cũ vốn đã không thành công. Sự tăng trưởng của Trung Quốc cả số lượng và chất lượng đều xấu đi. Trừ khi các nhà lãnh đạo Trung Cộng chịu quay lại với con đường tự do hóa kinh tế, thì tương lai của Trung Quốc sẽ rất khác xa so với bức tranh màu hồng mà họ đã vẽ ra.
Nhờ vào những cải cách cấp bách trước đây, Trung Quốc đã từ tình trạng nghèo đói tăng lên mức thu nhập trung bình chỉ trong vài thập niên. Điều này không có gì họ phải xấu hổ. Tuy nhiên, những tiến bộ thần kỳ thành quả kinh tế đó sẽ giảm dần nếu ông Tập Cận Bình không chịu tranh luận về chính sách và chấp nhận hạn chế tham vọng chính trị có thể tạo ra sự kém sút khả năng của Đảng CS.
Một sự xác định trung thực của những thất bại gần đây cho thấy không còn nhiều thời gian nữa. Từ trước đến nay, các nhà đầu tư, các doanh nghiệp tại Trung Quốc cũng như nước ngoài và các chính phủ trên thế giới đều nhắm mắt cho rằng Trung Quốc đang thành công trong cải cách hoặc chọn phương cách trì hoãn; rất ít người chịu kết luận rằng Trung Quốc đã cố gắng cải cách nhưng không thành công. Ông Tập tin rằng ông ta còn một thập niên nữa để điều chỉnh mô hình kinh tế cho đất nước. Việc xem xét lại nhiều kế hoạch và chính sách lớn mà đảng Trung Cộng đã đưa ra nhưng bị từ bỏ cho thấy kết quả ngược lại: chỉ còn vài năm nữa để hành động trước khi sự tăng trưởng sẽ cạn kiệt. Nếu họ chờ đến phút cuối mới hành động thì sẽ quá muộn.
MẮC KẸT Ở GIỮA
Phe diều hâu Trung Quốc tại Hoa Kỳ khẳng định họ đã đúng: Trung Quốc đã không cải cách và không bao giờ có ý định làm như vậy. Một số người còn cho rằng Bắc Kinh đã lừa dối Washington kể từ năm 1972, khi Tổng thống Mỹ Richard Nixon thiết lập quan hệ bình thường với Bắc Kinh, Trung Cộng chỉ giả vờ khao khát tự do hóa. Đó có thể cách hiểu sai về đường lối kinh tế của Trung Quốc. Trong thời kỳ cải cách do Đặng Tiểu Bình khởi xướng vào năm 1978, đảng này đã nới lỏng quyền kiểm soát lực lượng kinh tế như lạm phát, vốn nội địa và thất nghiệp. Bắc Kinh đã để nước ngoài đi vào các lãnh vực nhạy cảm chiến lược của nền kinh tế, như viễn thông, hàng không vũ trụ. Những “con bò thiêng” ý thức hệ cộng sản đã được hy sinh. Khi Đặng mới bắt đầu cải cách, nhà nước ấn định hầu hết mức giá cả hàng hóa và dịch vụ; nhưng vào thời điểm Trung Quốc gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới WTO năm 2001, tất cả mức giá cả ngoại trừ một số ít đã được ấn định bởi thị trường. Năm 1990, Trung Cộng cho đóng cửa hơn 100.000 công ty quốc doanh, khiến cho hơn 20 triệu người bị sa thải. Đến năm 2020, đảng này cho phép nước ngoài xây dựng các doanh nghiệp trị giá 3 nghìn tỷ USD ở Trung Quốc, nhiều doanh nghiệp đã cạnh tranh trực tiếp với các công ty quốc doanh.
Tuy nhiên, những chính sách quan trọng như vậy nhưng chỉ thể hiện qua các hành động dễ dãi như các viên chức quan liêu tránh qua một bên, họ không phát triển thị trường; mà để thị trường phát triển sau những hỗn loạn về kế hoạch của chính phủ. Giảm can thiệp của nhà nước, dỡ bỏ các rào cản đầu tư xuyên biên giới, giảm phí nội bộ và thuế đã làm thay đổi quỹ đạo kinh tế Trung Quốc. Trong những thập niên sau 1978, tốc độ tăng trưởng GDP hàng năm từ dưới 5,5 phần trăm (ngang hàng các nước thu nhập thấp) đã gia tăng lên mức hai con số, Trung Quốc thành một đầu tàu kinh tế .
Nhưng trong cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008, Bắc Kinh đã dễ dàng gặt hái thành công. Để đảm bảo tiếp tục tăng trưởng mạnh, đảng TC cần phải dựa vào và thúc đẩy việc quản trị tốt, cạnh tranh bình đẳng, đồng thời áp đặt cứng rắn với đầu tư lãng phí – giải quyết những thách thức mà bất cứ nước thành công nào phải đối mặt. Tuy nhiên, trong bốn năm tiếp theo, sự vay mượndễ dàng được dùng như công cụ chính của Bắc Kinh, tổn phí dịch vụ nợ hàng năm tăng từ ba nghìn tỷ lên tám nghìn tỷ nhân dân tệ. Khi ông Tập lên cầm đầu ĐCS năm 2012, tốc độ tăng trưởng đã chậm lại ở mức một con số, lợi tức đầu tư của chính phủ vào hạ tầng giảm. Đây là hiện tượng các nhà kinh tế gọi là “bẫy thu nhập trung bình”, khi một quốc gia thoát khỏi đói nghèo, thì tăng trưởng sẽ khó khăn hơn.
ÔNG TẬP TÓM THU QUYỀN LỰC
Ngay từ đầu, ông ta đã củng cố quyền lực, thu hẹp Ủy ban Thường vụ Bộ Chính trị từ chín thành viên xuống còn bảy và đích thân ông chủ trì hầu như tất cả các nhóm quan trọng chịu trách nhiệm hoạch định chính sách. Ông Tập đã chọn ông Lưu Hà (Liu He), một người nổi tiếng ủng hộ thị trường hóa, là người có trách nhiệm chính về kinh tế,. Ông Tập đã đặt tiêu chuẩn cao cho việc cải cách, ban hành một công bố năm 2013 được gọi là “60 Quyết định”. Ông cam kết làm cho thị trường trở thành “quyết định” trong việc đưa đến các kết quả kinh tế và tái sắp xếp vai trò của nhà nước theo cách mà các nhà kinh tế phương Tây tự do sẽ hoan nghênh: duy trì ổn định kinh tế vĩ mô, cung cấp các dịch vụ công, đảm bảo cạnh tranh và điều tiết công bằng, giải quyết các thất bại của thị trường. Các nhà kinh tế của ông Tập đã thuyết phục rằng nếu không có hành động táo bạo, Trung Quốc sẽ phải đối mặt với bẫy nợ nội bộ của chính mình.
Ông Lưu bắt tay vào việc. Mùa xuân năm 2013, các nhà làm chính sách đã đặt mục tiêu vào hệ thống tài chính vốn đang căng thẳng với các khoản nợ rủi ro. Các ngân hàng phát hành quản lý tài sản ngắn hạn với lãi suất cao và sử dụng số tiền thu được để đầu tư vào các tài sản dài hạn rủi ro hơn. Ngân hàng trung ương Nhân dân Trung Quốc, đã quyết định gây sốc cho các ngân hàng bằng cách cắt đứt tiếp cận nguồn vốn ngắn hạn, hình thức đã gây ra những hậu quả khôn lường: các ngân hàng bất ngờ đến mức phải ngừng cho vay lập tức, khiến cho lãi suất vay ngắn hạn tăng từ hai hoặc ba phần trăm lên đến 20 đến 30 phần trăm. Thị trường chứng khoán Trung Quốc giảm hơn 10% trong khi các nhà giao dịch tìm tiền mặt thông qua bất kỳ tài sản thanh khoản nào có sẵn. PBOC (nhà băng Trung Ương) nhanh chóng hỗ trợ và khôi phục nguồn vốn ngắn hạn cho các ngân hàng, điều này đưa đến nhiều rủi ro hơn. Từ năm 2013 đến năm 2016, việc vay mượn qua thị trường tiền tệ ngắn hạn tăng lên gấp bội, đưa đến sự bùng nổ chợ đen, với việc các ngân hàng cung cấp tiền cho các tổ chức thứ ba để kiếm lợi nhuận cao hơn, các kênh này không được kiểm soát (chẳng hạn như cung cấp các khoản vay để đầu cơ thị trường chứng khoán) và bằng cách cho vay tiền cho những người có sự rủi ro cao.
HAI BƯỚC TIẾN, HAI BƯỚC LÙI
Cuộc khủng hoảng thị trường qua các ngân hàng này là dấu hiệu đầu tiên cho thấy những gì đã trở thành khuôn mẫu trong thời đại ông Tập: những nỗ lực táo bạo sau đó là phải rút lui vì đã gây ra bất ổn và biến động. Mô hình này tái diễn vào năm 2014, khi Bắc Kinh thực hiện các bước để giúp các công ty Trung Quốc đầu tư trực tiếp ra nước ngoài dễ dàng, một điều cần thiết nếu họ nâng ngành sản xuất hàng hóa xuất khẩu trở thành các doanh nghiệp toàn cầu. Và họ đã đầu tư trực tiếp vốn ra nước ngoài tăng từ 73 tỷ đô la năm 2013 lên mức 216 tỷ đô la vào năm 2016, một sự bùng nổ rất đáng kể hơn nhiều so với dự đoán. Một số khoản đầu tư này đã tạo cho Trung Quốc quyền tự hào với tư cách là một công ty toàn cầu – ví dụ như việc mua lại Anbang Insurance của Waldorf Astoria và tài trợ cho liên doanh với Carnival Cruise Lines của China Investment Corporation, một quỹ tài sản mà TQ có chủ quyền. Nhưng khi những tài sản ra nước ngoài này chồng chất, Dự trữ ngoại hối của Trung Quốc được tích lũy trong nhiều năm nhờ thặng dư thương mại đã giảm gần một phần tư (từ gần 4 nghìn tỷ USD xuống dưới 3 nghìn tỷ USD) khi các nhà đầu tư dùng USD để đầu tư ra nước ngoài. Vào cuối năm 2016, ĐCSTQ, lo lắng về dòng tiền chảy ra ngoài nhanh chóng, đã quyết định ngưng lại và áp dụng các biện pháp kiểm soát vốn. Đầu tư ra nước ngoài đã bị đình trệ kể từ đó.
Chính sách thuế là một lĩnh vực được thực hiện ồ ạt. Vào tháng 6 năm 2014, Bộ Chính trị đã thông qua kế hoạch cải cách tài chính và thuế quốc gia, ra lệnh Bộ Tài chính, do Lou Jiwei đứng đầu, kiềm chế việc vay tiền và chi tiêu của các địa phương và đưa ra các loại thuế tài sản, dự tính hoàn thành vào năm 2016, nhưng nó đã thất bại khi quá thời hạn 5 năm, rất ít tiến bộ; Nợ chính quyền địa phương đã tăng lên kể từ đó, và Lou (hiện đã nghỉ hưu) đã cảnh báo về những rủi ro cho tài khóa đang rình rập.
Nhóm của ông Tập đã chuyển sang lĩnh vực doanh nghiệp sau khi việc chi tiêu chính phủ thất bại. Ông Tập cam kết giảm bớt vai trò độc đoán của nhà nước, nhường chỗ cho các doanh nghiệp quản lý hoạt động thương mại với ít sự can thiệp chính trị, nhưng cũng thất bại trong hai thí điểm: trao quyền cho các giám đốc độc lập; giảm bớt vai trò của các ủy ban của ĐCS. Tuy nhiên, cả hai nỗ lực đó đều bị đình trệ và kể từ năm 2017, đảng đã giữ lại mọi công việc của công ty quốc doanh và gia tăng ảnh hưởng đối với các công ty tư nhân, kể cả công ty nước ngoài.
Đảng cũng mở cửa thị trường chứng khoán để giảm bớt gánh nặng tài chính cho các ngân hàng nhà nước. Mức nợ của chính quyền địa phương và các doanh nghiệp nhà nước là một nỗi lo thường trực, và viễn cảnh sử dụng danh sách thị trường chứng khoán để xóa nợ là không thể cưỡng lại. Bắc Kinh ganh với sự năng động của thị trường chứng khoán phương Tây, năm 2013, chính phủ đã đơn giản hóa các đợt phát hành cổ phiếu lần đầu ra công chúng và trong vòng một năm, 48 đợt IPO đã được hoàn thành và 28 đợt khác đã được các cơ quan quản lý xóa. Các quan chức cũng dỡ bỏ các hạn chế đối với giao dịch ký quỹ. Các bài xã luận trên các tờ báo do nhà nước kiểm soát đã khuyến khích mọi người đổ xô vào các cổ phiếu. Chẳng bao lâu, Trung Quốc đã nhìn thấy mặt trái của cuộc chơi của mình. Vào tháng 6 năm 2015, bong bóng đã vỡ: trong vòng một tháng, thị trường mất một phần ba giá trị. Ngày nay, bất chấp sự mở rộng đáng kể của nền kinh tế nói chung, thị trường vẫn thấp hơn 25% so với mức cao nhất năm 2015.
HẬU QUẢ KHÔN LƯỜNG
Ngân hàng là một lĩnh vực khác mà ông Tập thử lửa. Vào tháng 10 năm 2015, Ông đã tự do hóa hoàn toàn lãi suất tiền gửi ngân hàng và các khoản cho vay. Các tỷ giá này trước đây do ngân hàng trung ương ấn định với sự hướng dẫn của Hội đồng Nhà nước, cơ quan hành chính của chính phủ trung ương. Hệ thống đó đã ngăn cản các ngân hàng cạnh tranh với nhau giữa người gửi tiền và người đi vay. Cho đến đầu những năm 2010, lãi suất được ấn định thấp hơn nhiều so với điều kiện thị trường, điều này có nghĩa là các gia đình trợ cấp hiệu quả cho những người đi vay nhà nước: người gửi tiền lẽ ra phải nhận được lãi suất tiết kiệm cao hơn và người đi vay đáng lẽ phải trả lãi suất cho vay cao hơn.
Để giải quyết những vấn đề này, ngân hàng trung ương cho phép các ngân hàng cạnh tranh bằng cách cung cấp cho người gửi tiền lãi suất cao hơn 50% so với lãi suất chuẩn chính thức, trước đó chỉ là 10 phần trăm. Ngay sau đó, trần lãi suất huy động đã được loại bỏ hoàn toàn – về nguyên tắc. Trên thực tế, các quan chức ngân hàng lo ngại rằng các ngân hàng nhỏ sẽ tạo ra sự bất ổn nếu họ cạnh tranh dựa trên các lực lượng thị trường, và vì vậy họ duy trì một quy tắc không chính thức rằng lãi suất huy động không được cao hơn 50% so với lãi suất chuẩn. Những bánh xe thử đó vẫn còn nguyên giá trị cho đến ngày nay: lãi suất trên danh nghĩa đã được tự do hóa, nhưng thực sự rất ít thay đổi, và các ngân hàng vẫn bị hạn chế trong cách họ có thể cạnh tranh để giành khách hàng.
Một mục tiêu khác trong chiến lược tự do hóa tài chính của ông Tập là đảm bảo việc Quỹ Tiền tệ Quốc tế công nhận đồng nhân dân tệ như một đồng tiền dự trữ xứng đáng được đưa vào rổ tiền tệ mà IMF căn cứ vào Quyền rút vốn đặc biệt (SDRs), một đơn vị tài khoản mà các ngân hàng trung ương sử dụng để thực hiện các giao dịch. PBOC hy vọng rằng nếu đồng nhân dân tệ có trạng thái đó, nó sẽ khuyến khích các ngân hàng trung ương khác mua tài sản bằng đồng nhân dân tệ, khiến thị trường Trung Quốc trở nên hấp dẫn hơn đối với các nhà đầu tư nước ngoài.

Chỉ số chứng khoán Trung Quốc tại Thượng Hải, Trung Quốc, tháng 6 năm 2015
Aly Song / Hình ảnh TPX trong ngày / Reuters
Tuy nhiên, rắc rối là các loại tiền tệ trong giỏ SDR được cho là có thể sử dụng tự do trong các giao dịch quốc tế và được giao dịch thường xuyên. Các biện pháp kiểm soát vốn của Trung Quốc khiến khó có thể đáp ứng các điều kiện đó. Để vượt qua trở ngại đó, Bắc Kinh tuyên bố rằng trên thực tế có một thị trường thanh khoản cho đồng nhân dân tệ – ở Hồng Kông, nơi duy trì một thị trường nhân dân tệ ở nước ngoài, nơi tỷ giá tiền tệ có thể dao động nhiều hơn ở chính Trung Quốc. Vấn đề với cách giải quyết này trở nên rõ ràng khi Bắc Kinh bất ngờ giảm giá đồng nhân dân tệ vào tháng 8 năm 2015 trong nỗ lực thống nhất giá cả ở đại lục và ở Hồng Kông. Các dòng vốn chảy ra đáng báo động là kết quả, được tạo điều kiện thuận lợi bởi chính thị trường Hồng Kông mà PBOC đã và đang thúc đẩy.
IMF cuối cùng đã đồng ý thêm nhân dân tệ vào giỏ SDR vào tháng 11 năm 2015. Tại thời điểm đó, ngân hàng trung ương Trung Quốc đã từ chối tự do hóa thị trường tiền tệ Hồng Kông, bóp nghẹt thanh khoản và giảm vai trò của nó như một trung tâm giao dịch. Sáu năm sau, nguồn nhân dân tệ ở Hồng Kông vẫn còn nhỏ, đồng tiền này vẫn chỉ chiếm một tỷ trọng hạn chế trong các giao dịch xuyên biên giới quốc tế và một tỷ lệ khiêm tốn trong dự trữ ngoại hối toàn cầu, và các biện pháp kiểm soát vốn của Trung Quốc vẫn được áp dụng.
Vào mùa hè năm 2016, Liu và những người còn lại trong ban lãnh đạo ĐCSTQ đã chán ngấy hoạt động cho vay rủi ro dẫn đến bong bóng thị trường chứng khoán và khủng hoảng thị trường liên ngân hàng. Họ sợ rằng hệ thống tài chính của Trung Quốc đã bắt đầu giống như của Hoa Kỳtrước cuộc khủng hoảng dưới chuẩn 2007–8. Vì vậy, Bắc Kinh đã bắt tay vào một chiến dịch xóa nợ để thu nhỏ hệ thống ngân hàng bóng tối và giảm thiểu rủi ro tài chính hệ thống. Thứ nhất, ngân hàng trung ương cố định lãi suất vay ngắn hạn cao hơn, làm tăng lãi suất chung nhưng không làm giảm đáng kể khối lượng tín dụng. Sau đó, Bắc Kinh đã tăng cường các quy định quản lý để ngăn chặn các ngân hàng gửi quỹ cho các tổ chức bên thứ ba để sửa đổi các quy định. Theo kế hoạch, khối lượng tín dụng mới đã giảm, nhưng điều này có tác động điều chỉnh nền kinh tế trong suốt năm 2018, vì hóa ra những người vay từ các ngân hàng bóng tối không chỉ tham gia đầu cơ mà còn đầu tư vào phát triển bất động sản và cơ sở hạ tầng địa phương. Một lần nữa, Bắc Kinh phải rút lui, từ bỏ các nỗ lực xóa nợ tích cực và cho phép tín dụng tăng trở lại,
Mô hình khôi phục quyền kiểm soát trung ương sau những nỗ lực tự do hóa thất bại có thể đang đạt đến đỉnh điểm trong một trong những câu chuyện quan trọng nhất của Trung Quốc trong năm qua: cuộc đàn áp của Bắc Kinh đối với các công ty công nghệ tài chính. Điều này đã dẫn đến các hành động chống độc quyền chống lại hai gã khổng lồ công nghệ Alibaba và Tencent và việc hoãn đợt phát hành cổ phiếu lần đầu ra công chúng cho Ant Group, một công ty con của Alibaba.
ĐCS TQ đã trình bày những bước này là cải cách vì người tiêu dùng, điều này có vẻ hợp lý trong một thế giới mà nhiều quốc gia khác đang tìm cách kiềm chế những gã khổng lồ công nghệ của họ. Nhưng đối với Bắc Kinh, các hành động này đánh dấu sự kết thúc của một quá trình mở cửa tài chính quan trọng. Vào đầu những năm 2010, các công ty này đã được các nhà kỹ trị của đảng giúp đỡ, những người hy vọng rằng những đổi mới tài chính sẽ buộc các ngân hàng quốc doanh hợp nhất trở nên hiệu quả hơn. Điều này đã thành công, ít nhất là phù hợp và bắt đầu: các công ty mới đã làm cho hệ thống tài chính hoạt động cho những khách hàng chưa được phục vụ trước đây. Nhưng sự đổi mới cũng đi kèm với những rủi ro mới, chẳng hạn như các nền tảng cho vay ngang hàng cung cấp lãi suất cao cho người gửi tiền và thậm chí lãi suất cao hơn cho người đi vay. Khi nhiều người đi vay vỡ nợ, các nhà đầu tư đã phản đối, họ tin nhầm rằng các nền tảng này được chính phủ bảo lãnh. Vào tháng 8 năm 2018, hàng ngàn người đã có mặt ở trung tâm khu tài chính của Bắc Kinh để đòi bồi thường. Một cuộc phá vỡ theo quy định đối với các tổ chức cho vay ngang hàng đã bắt đầu, trong phần mở đầu cho đợt giám sát năm nay của Ant Group. Cuộc thay đổi đã thành công trong việc giảm thiểu rủi ro tài chính, nhưng nó cũng làm đảo ngược lợi ích của cải cách, vì nhiều người tiêu dùng có thu nhập thấp hiện có ít lựa chọn hơn trong việc tiếp cận tín dụng.
Mô hình chính sách kinh tế vĩ mô trong thời kỳ của ông Tập là rất rõ ràng: mỗi nỗ lực cải cách đều tạo ra một cuộc khủng hoảng nhỏ đe dọa trở thành một cuộc khủng hoảng lớn hơn, khiến ĐCSTQ quay lại với những gì họ biết rõ nhất: chỉ huy và kiểm soát. Tất nhiên, đường lối chính thức là không có thất bại nào và Trung Quốc đang tiến về phía trước một cách chắc chắn với chương trình nghị sự “cải cách và mở cửa” của Đặng. Trong một bài phát biểu vào tháng 12 năm 2020, ông Tập khoe rằng đã đưa ra 2.485 kế hoạch cải cách, đạt được các mục tiêu của đảng theo đúng tiến trình. Tháng sau, tờ báo chính thức People’s Daily cũng đồng tình khi nói rằng 336 mục tiêu cải cách ưu tiên cao đã “hoàn thành về cơ bản” và ca ngợi “những bước đột phá đáng kể trong cải cách sâu rộng toàn diện.”
Trong riêng tư, các nhà kinh tế Trung Quốc thừa nhận rằng không phải như vậy. Nhưng họ cho rằng —những thách thức đang ảnh hưởng đến hệ thống kinh tế thị trường kể từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu cung cấp nhiều lý do để tiến hành một cách chậm chạp. Như Phó Chủ tịch Trung Quốc Vương Kỳ Sơn đã nói với Bộ trưởng Tài chính Mỹ lúc bấy giờ là Henry Paulson giữa cuộc khủng hoảng đó: “Bạn là thầy của tôi, nhưng bây giờ ở đây, tôi đang ở trong phạm vi thầy của tôi và hãy nhìn vào hệ thống của bạn, Hank. Chúng tôi không chắc chúng tôi nên học hỏi từ bạn nữa. “Trong thời Trump, ngay cả Hoa Kỳ – lâu nay là nước đề xướng tự do hóa kinh tế hàng đầu thế giới – dường như cũng đặt ra câu hỏi về niềm tin thị trường tự do của mình.
Nhưng câu chuyện thực tế không phải là sự thành công trong cải cách của Trung Quốc hay sự chần chừ trong cải cách của họ. Ông Tập đã cố gắng nhưng phần lớn không thành công trong việc thúc đẩy chương trình nghị sự mà Đặng đưa ra vào năm 1978 và những người tiền nhiệm của ông Tập đều duy trì. Hậu quả của thất bại đó là rõ ràng. Kể từ khi ông Tập nắm quyền kiểm soát, tổng nợ đã tăng từ 225% GDP lên ít nhất 276%. Vào năm 2012, phải mất sáu nhân dân tệ tín dụng mới để tạo ra một nhân dân tệ tăng trưởng; vào năm 2020, nó mất gần mười. Tăng trưởng GDP đã chậm lại từ khoảng 9,6 phần trăm trong những năm trước Tập Cận Bình xuống dưới sáu phần trăm trong những tháng trước khi đại dịch bắt đầu. Tăng trưởng tiền lương và tăng thu nhập hộ gia đình cũng chậm lại. Và trong khi tăng trưởng năng suất – khả năng tăng trưởng mà không cần sử dụng thêm lao động hoặc tài nguyên – chiếm tới một nửa mức mở rộng kinh tế của Trung Quốc trong những năm 1990 và một phần ba trong thập kỷ tiếp theo, ngày nay nó được ước tính chỉ đóng góp một phần trăm trong tăng trưởng sáu phần trăm của Trung Quốc, hoặc theo một số tính toán, không đóng góp gì cả. Tất cả các điểm dữ liệu này báo hiệu mất tính năng động của nền kinh tế .
NGUY CƠ CAO
Tại sao Ông Tập đã không chống lại cải cách mà lại thất bại? Lý do: sự nhận thức rất quan trọng. Nếu các nhà đầu tư, doanh nghiệp và các chính phủ khác tin rằng ông Tập đã từ chối cải cách nhưng Trung Quốc có thể mang lại tăng trưởng, thì họ sẽ tán thành và đầu tư vào mô hình của Bắc Kinh. Nhưng nếu họ hiểu rằng ông Tập trên thực tế đã cố gắng tự do hóa nhưng lại quay về nền kinh tế chỉ huy và được kiểm soát với năng suất thấp, thì họ sẽ do dự, nếu không nói là rút lui, họ sẽ đòi hỏi Bắc Kinh phải cải cách kỹ càng chính sách trước khi có thể được họ tin tưởng.
Dựa trên niềm tin của chính ông Tập rằng nếu không cải cách thì Trung Quốc sẽ đi vào ngõ cụt, thì hậu quả dường như không thể tránh khỏi. Câu hỏi đặt ra là khi nào nó sẽ đến và liệu Bắc Kinh có thực hiện những bước đi táo bạo mà mọi quốc gia đã thoát khỏi “bẫy thu nhập trung bình” đã từng phải thực hiện hay không. Những sự hoài nghi về sự tiến bộ liên tục của Trung Quốc đã sai lầm trước đây, họ phải giải thích điều gì khác để biện minh cho sự giảm giá của họ. Ba yếu tố hấp dẫn nhất.
Thứ nhất, trong những năm gần đây, tiền lời vay mượn (không tính đến tiền vốn) đã tăng gấp đôi trị giá tăng trưởng GDP hàng năm: tình trạng này đang khiến các ngân hàng thất bại, tái cơ cấu và các doanh nghiệp nhà nước vỡ nợ lớn.
Thứ hai, lần đầu tiên kể từ khi xảy ra nạn đói hàng loạt trong thảm họa Đại nhảy vọt, dân số lao động đang thu hẹp lại, điều này sẽ dẫn đến lực lượng lao động ít hơn và ít người mua bất động sản hơn trên thị trường nhà ở đang dư thừa tại Trung Quốc.
Thứ ba, từ năm 1978 đến khoảng năm 2015, Hoa Kỳ và các cường quốc khác trên thế giới đã thả hết mọi phương cách can dự vào Trung Quốc và tạo cho con đường TQ đến với toàn cầu được suôn sẻ. Điều đó không còn đúng nữa, ngay cả khi các nền dân chủ thị trường mở đã không hình thành được sự đồng thuận về lập trường đúng đắn để đối phó với Trung Quốc trong tương lai. Theo nhiều cách, những luồng gió mà Trung Quốc hưởng được từ sự nhiệt tình của toàn cầu về sự trỗi dậy của họ đã trở thành những luồng gió ngược.
Nếu Bắc Kinh không thể thúc đẩy các công ty tư nhân tăng cường đầu tư và không thể thuyết phục các nền kinh tế lớn tiếp tục tham gia với Trung Quốc, thì triển vọng kinh tế nước này sẽ bị mây mù che phủ. Các nỗ lực cải cách thời Ông Tập đã tạo ra một loạt các mô hình nhỏ, mỗi mô hình thu hẹp không gian để thử và sai trong tương lai. Các thiên tài công nghệ cao mà ĐCS TQ gần đây đã tôn vinh như những anh hùng của một tương lai kỹ thuật số mới hiện đang cố gắng chứng tỏ lòng trung thành với đảng hơn là thúc ép các quan chức cho phép họ cạnh tranh và đổi mới mạnh mẽ hơn. Với mức nợ của hộ gia đình và doanh nghiệp đã ở mức cực cao, Trung Quốc có thể gỡ bỏ sự ổn định kinh tế thêm hai hoặc ba năm nữa bằng cách tăng thêm các khoản vay, miễn là dòng vốn toàn cầu và chuỗi cung ứng không cạn kiệt. Nếu các công ty và nhà đầu tư rút lui, hoặc TC tăng mức lời cao trong nước, sự trả giá sẽ sớm tới hơn.
Bắc Kinh có thể làm giảm bớt quá trình chuyển đổi này, nhưng không thể tránh khỏi. Không giống như Nhật Bản khi bong bóng tài sản xuất hiện năm 1991, Trung Quốc không phải là một quốc gia trưởng thành và có thu nhập cao. Thu nhập nông thôn ngày càng tăng sẽ khiến Trung Quốc mạnh lên nhưng không có thêm những thành phố danh tiếng hay máy móc công nghệ cao. Chiến dịch “lưu thông kép” của ông Tập đã hình dung ra một cuộc cách mạng chi tiêu của người tiêu dùng. Điều đó cũng là một khả năng, với điều kiện Bắc Kinh thay đổi từ việc hỗ trợ các công ty bằng buộc họ phải phục vụ người tiêu dùng. Và bằng cách bán bớt các doanh nghiệp nhà nước, Trung Quốc có thể huy động hàng nghìn tỷ đô la để trả nợ, tài trợ cho y tế và chi tiêu cho việc giảm khí các-bon, đồng thời thúc đẩy cạnh tranh tư nhân lành mạnh. Những con đường này và nhiều con đường khác để giúp tăng trưởng bền vững đều có sẵn. Nhưng trong mọi trường hợp, việc đảng nhấn mạnh rằng “chính phủ, quân đội, dân sự và học thuật; đông, tây, nam, bắc và trung tâm, đều do đảng lãnh đạo” cần phải được hy sinh, nhưng cho đến nay, vẫn còn rất xa mới được thực hiện.
Tại một thời điểm nào đó, các nhà lãnh đạo Trung Quốc phải đối đầu với sự đối nghịch này: hiệu quả kinh tế bền vững và sự toàn trị chính trị không song hành. Trong lịch sử, các nhà lãnh đạo phải đối diện với câu hỏi hóc búa ở Trung Quốc và ở các nơi khác cố gắng che giấu sự giảm năng suất lao động để câu giờ và tiếp tục tìm cách để có được tất cả. Và thực sự, các thống kê gần đây đã không được công bố ở Trung Quốc. Bắc Kinh sẽ nêu ra những kỷ lục của mình về sự ngoại lệ, nhưng nếu họ tìm ra cách để cùng lúc duy trì sự ổn định, kiểm soát nhà nước và sự năng động kinh tế, thì đây sẽ là quốc gia đầu tiên trong lịch sử đạt được như vậy. Dựa trên thành tích cải cách hỗn độn trong những năm của ông Tập, sự hoài nghi dường như rất là chính đáng.
Nếu Trung Quốc gặp số phận giống như của các quốc gia có thu nhập trung bình khác không cải cách để thoát khỏi tình trạng giảm năng suất, bức tranh sẽ trở nên u ám. Giá bất động sản và trái phiếu doanh nghiệp sẽ giảm nhiều gây ra sự bất mãn chính trị, mọi người thấy sự giàu có của họ bốc hơi. Với niềm tin giảm sút và quá dựa vào sự tin tưởng chính phủ hứa hẹn đảm bảo ổn định, thì đầu tư mới sẽ giảm, việc làm sẽ chậm lại, thuế và doanh thu cơ sở sẽ thu hẹp. Tất cả những điều này đã bắt đầu xảy ra, nhưng Bắc Kinh sẽ buộc phải đưa ra những lựa chọn khó khăn hơn trong tương lai.
Điều đó có nghĩa là một thời kỳ thắt lưng buộc bụng đau đớn đối với Trung Quốc và cả các đối tác của nước này ở nước ngoài, những người đã tin tưởng vào Trung Quốc như nhà mua quặng sắt, nhà cung cấp hỗ trợ phát triển, và nhà đầu tư trực tiếp vào các công ty khởi nghiệp và nhiều doanh nghiệp khác. Điều này sẽ gây ra những hậu quả địa chính trị to lớn, khi sự cạnh tranh giữa các cường quốc đang diễn ra. Bắc Kinh có thể trở nên hiếu chiến hơn để tìm kiếm các giải pháp. Ngược lại, nó có thể quay trở lại trọng tâm phát triển trong nước của những năm trước, trở lại với lời khuyên của Đặng để hạn chế sự tập trung của đảng.
Các nhà kinh tế không được trang bị tốt để dự đoán các nhà lãnh đạo sẽ đưa ra những lựa chọn chính trị lớn nào. Tuy nhiên, lịch sử đã chứng minh rằng mọi quốc gia thăng tiến để có thu nhập cao đều đã trải qua những cuộc khủng hoảng mang tính hệ thống, đặc biệt là trong lĩnh vực ngân hàng. Những người chủ trương sự điều chỉnh và loại bỏ ảo tưởng về tính hiệu quả mà không cần cải cách sẽ có tính cạnh tranh cao hơn. Trung Quốc có một di sản mạnh mẽ là chấp nhận cải cách và điều chỉnh, điều này đã góp phần tạo nên sự trỗi dậy của nước này. Cải cách không phải là một chương trình nghị sự của phương Tây được thúc đẩy với Trung Quốc: đó là sự khai sinh hiện đại của Trung Quốc. Sau một thập kỷ nỗ lực không thành công để thực hiện, Bắc Kinh đang tìm kiếm một con đường dễ dàng hơn. Ông Tập phải tái khám phá rằng cải cách là con đường khó khăn nhất, ngoại trừ những con đường khác.
- Theo Daniel H. Rosen – Foreign Affairs
HD Press tóm lược theo:
https://www.foreignaffairs.com/articles/china/2021-06-22/chinas-economic-reckoning
Tags: nguy cơ