Nhà ngoại giao Mỹ Henry Kissinger từng đoạt giải Nobel, qua đời ở tuổi 100 ‘với những lời khen chê’ (*)
Reuters
Ngày 29 tháng 11 năm 20238:45 tối EST. Đã cập nhật 28 phút trước
Công ty tư vấn địa chính trị Kissinger Associates Inc cho biết Henry Kissinger, người đoạt giải Nobel Hòa bình gây tranh cãi và là nhà ngoại giao quyền lực, người đã phục vụ dưới thời hai tổng thống để lại dấu ấn không thể phai mờ trong chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ, qua đời hôm thứ Tư, thọ 100 tuổi, theo công ty tư vấn địa chính trị Kissinger Associates Inc.
Kissinger qua đời tại nhà riêng ở Connecticut, Kissinger Associates cho biết.
Kissinger đã hoạt động tích cực trong hơn 100 năm của mình, tham dự các cuộc họp ở Tòa Bạch Ốc, xuất bản một cuốn sách về phong cách lãnh đạo và điều trần trước ủy ban Thượng viện về mối đe dọa hạt nhân do Triều Tiên gây ra. Vào tháng 7 năm 2023, ông có chuyến thăm bất ngờ tới Bắc Kinh để gặp Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình.
Vào những năm 1970, ông đã tham gia nhiều sự kiện toàn cầu mang tính thay đổi thời đại trong thập kỷ này khi giữ chức ngoại trưởng dưới thời Tổng thống Đảng Cộng hòa Richard Nixon. Những nỗ lực của người tị nạn Do Thái gốc Đức đã dẫn tới sự mở cửa ngoại giao của Trung Quốc, các cuộc đàm phán kiểm soát vũ khí mang tính bước ngoặt giữa Mỹ và Liên Xô, mở rộng quan hệ giữa Israel và các nước láng giềng Ả Rập, và Hiệp định Hòa bình Paris với Bắc Việt.
Triều đại của Kissinger với tư cách là kiến trúc sư trưởng về chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ suy yếu sau khi Nixon từ chức vào năm 1974. Tuy nhiên, ông vẫn tiếp tục là một nhà ngoại giao dưới thời Tổng thống Gerald Ford và đưa ra những quan điểm mạnh mẽ trong suốt quãng đời còn lại của mình.
Trong khi nhiều người ca ngợi Kissinger vì sự thông minh và kinh nghiệm sâu rộng của ông, những người khác lại coi ông là tội phạm chiến tranh vì ủng hộ các chế độ độc tài chống cộng, đặc biệt là ở Mỹ Latinh. Trong những năm cuối đời, các chuyến đi của ông bị hạn chế bởi nỗ lực của các quốc gia khác nhằm bắt giữ hoặc thẩm vấn ông về chính sách đối ngoại trong quá khứ của Hoa Kỳ.
Giải thưởng Hòa bình năm 1973 của ông – được trao chung cho Lê Đức Thọ của Bắc Việt, người đã từ chối nó – là một trong những giải gây tranh cãi nhất từ trước đến nay. Hai thành viên của ủy ban Nobel đã từ chức vì việc lựa chọn và đặt ra nhiều nghi vấn về vụ Mỹ bí mật ném bom Campuchia.
Ford gọi Kissinger là “siêu ngoại trưởng”; nhưng cũng ghi nhận tính gai góc và tự tin của ông, điều mà các nhà phê bình thường gọi là hoang tưởng và tự cao tự đại. Ngay cả Ford cũng nói: “Henry trong tâm trí chưa bao giờ phạm sai lầm”.
TỐT NGHIỆP VÀ DẠY Ở HARVARD
Heinz Alfred Kissinger sinh ra ở Furth, Đức, vào ngày 27 tháng 5 năm 1923 và di cư đến Hoa Kỳ cùng gia đình vào năm 1938 trước chiến dịch tiêu diệt người Do Thái ở châu Âu của Đức Quốc xã.
Anh đổi tên thành Henry, Kissinger nhập quốc tịch Hoa Kỳ vào năm 1943, phục vụ trong Quân đội ở Châu Âu trong Thế chiến thứ hai, và vào Đại học Harvard nhờ học bổng, lấy bằng cao học năm 1952 và bằng tiến sĩ năm 1954. Ông đã giảng dạy tại Harvard trong 17 năm tiếp theo.
Trong phần lớn thời gian đó, Kissinger làm cố vấn cho các cơ quan chính phủ, kể cả vào năm 1967 khi ông đóng vai trò trung gian cho Bộ Ngoại giao Mỹ tại Việt Nam. Ông sử dụng mối quan hệ của mình với chính quyền của Tổng thống Lyndon Johnson để chuyển thông tin về các cuộc đàm phán hòa bình cho phe Nixon.
Khi lời cam kết chấm dứt Chiến tranh Việt Nam của Nixon giúp ông đắc cử tổng thống năm 1968, ông đã đưa Kissinger vào Nhà Trắng với tư cách cố vấn an ninh quốc gia.
Nhưng quá trình “Việt Nam hóa”; – chuyển gánh nặng chiến tranh từ nửa triệu lực lượng Mỹ sang miền Nam Việt Nam – kéo dài và đẫm máu, chấm dứt bằng vụ ném bom ồ ạt của Mỹ vào miền Bắc Việt Nam, thả mìn các cảng miền Bắc và ném bom Campuchia.
Kissinger tuyên bố vào năm 1972 rằng “hòa bình trong tầm tay” ở Việt Nam nhưng Hiệp định Hòa bình Paris đạt được vào tháng 1 năm 1973 chỉ là khúc dạo đầu cho việc Cộng sản cuối cùng tiếp quản miền Nam hai năm sau đó.
Năm 1973, ngoài vai trò cố vấn an ninh quốc gia, Kissinger còn được bổ nhiệm làm ngoại trưởng – trao cho ông quyền lực không thể tranh cãi trong các vấn đề đối ngoại.
Xung đột giữa Ả Rập-Israel ngày càng gia tăng đã đưa Kissinger thực hiện cái gọi là “con thoi” đầu tiên của ông, một thương hiệu ngoại giao mang tính cá nhân cao, áp lực cao mà nhờ đó ông đã trở nên nổi tiếng.
Ba mươi hai ngày di chuyển giữa Jerusalem và Damascus đã giúp Kissinger đạt được thỏa thuận rút quân lâu dài giữa Israel và Syria tại Cao nguyên Golan do Israel chiếm đóng.
Trong nỗ lực giảm bớt ảnh hưởng của Liên Xô, Kissinger đã liên hệ với đối thủ cộng sản chính của mình là Trung Quốc và thực hiện hai chuyến đi tới đó, trong đó có một chuyến đi bí mật để gặp Thủ tướng Chu Ân Lai. Kết quả là hội nghị thượng đỉnh lịch sử của Nixon tại Bắc Kinh với Chủ tịch Mao Trạch Đông và cuối cùng là việc chính thức hóa quan hệ giữa hai nước.
HIỆP ĐỊNH VŨ KHÍ CHIẾN LƯỢC
Vụ bê bối Watergate buộc Nixon phải từ chức hầu như không tác động đến Kissinger, người không liên quan đến vụ che đậy và tiếp tục giữ chức ngoại trưởng khi Ford nhậm chức vào mùa hè năm 1974. Nhưng Ford đã thay thế ông làm cố vấn an ninh quốc gia trong một nỗ lực nhằm nghe nhiều tiếng nói hơn về chính sách đối ngoại.
Cuối năm đó Kissinger đi cùng Ford đến Vladivostok ở Liên Xô, nơi tổng thống gặp lãnh đạo Liên Xô Leonid Brezhnev và đồng ý về khuôn khổ cơ bản cho một hiệp ước vũ khí chiến lược. Thỏa thuận này đã hạn chế những nỗ lực tiên phong của Kissinger nhằm giảm bớt căng thẳng giữa Mỹ và Liên Xô.
Nhưng kỹ năng ngoại giao của Kissinger cũng có giới hạn. Năm 1975, ông bị mắc lỗi vì đã không thuyết phục được Israel và Ai Cập đồng ý rút quân giai đoạn hai ở Sinai.
Và trong cuộc chiến tranh Ấn Độ-Pakistan năm 1971, Nixon và Kissinger bị chỉ trích nặng nề vì nghiêng về phía Pakistan.
Giống như Nixon, ông lo ngại sự lan rộng của tư tưởng cánh tả ở Tây bán cầu, và hành động đáp trả của ông sẽ gây ra sự nghi ngờ sâu sắc đối với Washington từ nhiều người Mỹ Latinh trong nhiều năm tới.
Năm 1970, ông bày mưu với CIA về cách tốt nhất để gây bất ổn và lật đổ Tổng thống Chile Salvador Allende theo chủ nghĩa Mác nhưng được bầu cử dân chủ, trong khi ông nói trong một bản ghi nhớ sau cuộc đảo chính đẫm máu của Argentina năm 1976 rằng những kẻ độc tài quân sự nên bị trừng phạt.
Khi Ford thua Jimmy Carter, một đảng viên Đảng Dân chủ, vào năm 1976, những ngày của Kissinger nắm giữ quyền lực trong chính phủ phần lớn đã kết thúc. Đảng viên Cộng hòa tiếp theo ở Nhà Trắng, Ronald Reagan, đã tránh xa Kissinger, người mà ông coi là lạc lõng với cử tri bảo thủ của mình.
Sau khi rời chính phủ, Kissinger thành lập một công ty tư vấn có quyền lực cao, giá cao ở New York, đưa ra lời khuyên cho giới thượng lưu doanh nghiệp trên thế giới. Ông phục vụ trong hội đồng quản trị công ty và nhiều diễn đàn an ninh và chính sách đối ngoại, viết sách và trở thành nhà bình luận truyền thông thường xuyên về các vấn đề quốc tế.
Sau vụ tấn công ngày 11 tháng 9 năm 2001, Tổng thống George W. Bush đã chọn Kissinger làm người đứng đầu một ủy ban điều tra. Nhưng sự phản đối kịch liệt từ các đảng viên Đảng Dân chủ cho rằng có xung đột lợi ích với nhiều khách hàng của công ty tư vấn của ông đã buộc Kissinger phải từ chức.
Ly hôn với người vợ đầu tiên, Ann Fleischer, vào năm 1964, ông kết hôn với Nancy Maginnes, phụ tá của Thống đốc New York Nelson Rockefeller, vào năm 1974. Ông có hai con với người vợ đầu tiên.
Báo cáo của Abinaya Vijayaraghavan ở Bengaluru; Chỉnh sửa bởi Sandra Maler
Tiêu chuẩn của chúng tôi: Nguyên tắc ủy thác của Thomson Reuters.
Theo Reuters, chúng tôi thêm lời tựa trong ngoặc đơn.
Overlay7
Tags: Hoa kỳ, tin tức thế giới, Trung cộng